Nên, khi bạn hỏi rằng bản sắc văn hóa Việt Nam ở đâu, tôi nghĩ rằng đặc trưng của chúng ta chính là sự khôn ngoan trong phương pháp tiếp thu những nhân tố văn hóa mới
Chúng ta mang Khổng Tử về lập Văn Miếu, ứng dụng hình thức Nho học cử tử trong cả ngàn năm để tuyển chọn người tài giữ nước. Rồi, lời trước tiên nói về vùng đất Thăng Long - Đại La là “đô cũ của Cao Vương”. Thấy tôi góp ý về con sư tử đá đang ngự trước chùa, sư thầy tần ngần kể rằng đó là tặng vật của “một ông rất to”.
Tất thảy những yếu tố văn hóa mới ấy đều được chúng ta dung nạp để tìm sự thăng bằng cho mình. Trong sự hội nhập văn hóa tất yếu ấy, chúng ta chủ động học ở họ những cái hay, cái tốt để tự bảo vệ mình. Do vậy, Phật giáo đã đồng hành với chúng ta gần như trong chiều dài lịch sử, và có vai trò chẳng thể thay thế trong những lần chống ngoại xâm phương Bắc.
Tôi hiểu cái khó của họ. So sánh vui, thì cách bảo tồn văn hóa của chúng ta cần giống như cách xử sự với trống đồng vậy. Không nên như vậy, cái hay thì cứ học, miễn chúng ta tiếp nhận văn hóa ấy với tâm thế, não trạng và ý kiến như thế nào.
Thực tế chứng minh rằng những sự ứng dụng ấy rất có hiệu quả, và giúp ta trong suốt cả ngàn năm nay giữ được sự tự chủ về văn hóa của mình.
- Đây cũng là câu chuyện can dự tới việc tiếp nhận văn hóa từ Trung Hoa mà chúng ta vừa bàn. * Có nghĩa, vấn đề nằm ở sự lựa chọn trong việc hấp thụ văn hóa ngoại, mà cụ thể ở đây là văn hóa Trung Quốc. Tôi kể một tỉ dụ thế này. Chỉ là những tượng trưng văn hóa thôi. Mở đầu cuộc trò chuyện, ông nói ngay: - Quả thực, chúng ta thu nạp văn hóa Trung Quốc giờ theo cách hơi.
Cái đáng ngại ở đây là vì sao những thứ như vậy có thể lọt vào cả chùa chiền - nơi trên lý thuyết phải là không gian bảo tồn văn hóa bản địa tốt nhất của mỗi nhà nước? Đổ tội cho tâm lý vào hùa, học đòi hay nói rằng chùa chiền bây giờ được “thả nổi”, khách thập phương cúng tiến gì cũng nhận thì dễ quá.
Một lần, thực hành công tác giám sát của đại biểu Quốc hội, tôi tới một ngôi chùa khá nức danh. Từ ngàn năm trước, khi lựa chọn tiếp thụ văn hóa phương Bắc, chúng ta cũng đã tức khắc có một cuộc hội nhập văn hóa thứ hai từ Phật giáo Ấn Độ. Rồi tiếp đến là những nhân tố của văn hóa Phật giáo tiểu thặng, văn hóa Chăm, văn hóa Khmer, văn hóa bản địa phía Nam.
Nhà sử học Dương Trung Quốc, TT&VH Cuối tuần có cuộc bàn bạc với nhà sử học Dương Trung Quốc, người xới lên câu chuyện “sư tử đá” về vấn đề này.
Đấy là điều rất đáng lo. Chẳng hạn, ở mặt bên kia của việc gom nhóp sư tử đá về Việt Nam là một thực tại khác: chúng ta đang chưa tìm được những biểu trưng văn hóa cân xứng để phục vụ nhu cầu của người Việt Nam. Nhưng nếu làm, các nhà sinh sản sẽ bảo chưa đẹp, rối rắm khó làm và nhất là chưa quen với người dùng. Chúng ta có thể chọn một biểu tượng thuần Việt được không? TS khảo cổ Tống Trung Tín có nói rằng sư tử đá Việt Nam thời Lý - Trần với kiến trúc mềm mại mới là tượng trưng của Phật giáo.
- Sự thực, bản thân văn hóa là nguyên tố có sức lan tỏa rất mạnh
Thành thử, tôi cũng hơi lo ngại rằng những câu chuyện như sư tử đá sẽ khiến các bạn trẻ tẩy chay văn hóa Trung Quốc theo kiểu “ghét thì đào đất đổ đi”. Quá quắt bởi mang màu sắc cảm tính, thiếu hiểu biết, và thậm chí có chút gì đua đòi.
Quá đáng. Chúng ta chọn kinh thành theo cách mà Cao Biền nhìn về địa lý Việt Nam. Cho dù các cuộc tranh luận rằng Phật giáo vào Việt Nam đầu tiên qua đường từ hướng Bắc xuống, từ hướng Nam lên, hay do các nhà sư Ấn Độ trực tiếp đưa vào Luy Lâu thì cũng chẳng thể phủ nhận một thực tiễn: chúng ta rất khôn ngoan, thu nhận một dòng văn hóa mới để tạo sự thăng bằng.
Dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, chúng ta nói nhiều tới chiếu dời đô của Lý Thái Tổ. Việc con sư tử đá Trung Quốc được “hô biến” để trở thành biểu tượng phát tài, phát lộc đúng hay sai, ta không cần phân tách nữa.
Rồi, theo cá nhân tôi, quá trình Nam tiến của người Việt không chỉ lên đường từ nhu cầu mở rộng bờ cõi. Nhưng sự thực, rất nhiều độc giả thường nhật hiện thời cũng lúng túng khi thử tách bạch rạch ròi: đâu là văn hóa Việt Nam nguyên gốc, đâu là văn hóa ảnh hưởng từ phương Tây qua Pháp, đâu là văn hóa phương Đông qua Trung Hoa.
- Điều ấy cần được cụ thể hóa bằng những gì gắn với đời sống, chứ không phải là khẩu hiệu chung chung. Và, việc hấp thu văn hóa Trung Quốc là vấn đề về địa chính trị của mình. Những thứ như hát xoan, cồng chiêng, hò ví dặm. Chúng ta giữ là giữ khả năng chọn lọc để thu nạp những cái tốt của trần gian, chứ không phải là hoài cổ.
Những chuyện nhỏ như vậy đều cần tới một quá trình dài để dần tác động tới nhận thức của mọi người.
Vậy, nhưng ít người để ý tới một chi tiết quan trọng: trong văn bản ấy, cụ Lý Công Uẩn phê phán rất mạnh các triều Đinh, Tiền Lê “theo ý riêng, không noi theo việc cũ Thương Chu” để chọn đất dời đô.
Không đơn giản vậy đâu, bởi cái gốc của vấn đề là sự hiểu biết và nhận thức chung. Nếu theo cách nhìn của các bạn hiện nay, việc chê triều đại cũ, khen Cao Biền, nhà Chu, nhà Thương ở phương Bắc hẳn là hành động vong bản rồi! Tôi thì nghĩ khác.
Vậy thì các nhà mỹ thuật hãy tìm cách sáng tạo, các nhà nghiên cứu hãy phân tách và phổ thông tới cộng đồng đi. Cái vĩ đại của người xưa là việc nhận thức rõ: Trung Hoa là một nước bành trướng, nhưng cũng sở hữu một nền văn minh lớn.
Từ một vùng văn hóa quẩn sâu trong vịnh Bắc Bộ, chúng ta chủ động tiếp hội nhập với dòng văn hóa biển thật sự từ miền Trung trở vào, nơi nằm sát tuyến đường hàng hải Đông - Tây năng động nhất thế giới khi đó. Chúng ta tôn vinh tượng trưng trống đồng của người Việt bằng mọi hình thức, nhưng đừng nghĩ đến chuyện hì hục đúc lại trống đồng, rồi cởi trần đóng khố lôi ra đánh mỗi khi có kỳ cuộc gì nữa… * Như vậy, chúng ta sẽ lại quay sang câu chuyện rất cũ về hiệu quả của việc giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức.
Chiêu Minh (thực hành) Thể thao & Văn hóa Cuối tuần.
Nhưng chúng ta vẫn chưa khởi đầu, chưa tìm được tượng trưng văn hóa phù hợp với một từng lớp đương đại - trong khi hệ thống di sản văn hóa cũ thì đang bị phá hủy dần. Dời đi bây giờ đã không dễ, còn nếu sau này, người cúng tiến lại “phát tài, phát lộc” thật, thì câu chuyện còn rắc rối hơn nhiều.