Theo nghĩa chủ quan, công bằng phụ thuộc vào sự cảm nhận, đánh giá, phán xét của mỗi cá nhân 3. Công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc Trong kinh tế học, người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng từng lớp đó là: công bằng tầng lớp theo chiều ngang (horizontal justice) tức là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo tức thị đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau.
” Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cũng qui định: “Mọi công dân đều đồng đẳng trước luật pháp”.
Không ở đâu luật pháp qui định “mọi người đều bình đẳng”,vì điều đó chẳng thể có, nhưng gần như pháp luật của nhà nước nào cũng qui định “mọi người đều đồng đẳng trước pháp luật”. Bình đẳng chỉ là yếu tố cơ bản hợp thành sự công bằng. Trong tầng lớp đương đại ngày nay, để đảm bảo cho sự công bằng, cơ quan lập pháp có vai trò rất quan trọng. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật bị vi phạm khi công quyền hành xử tùy tiện, đối xử bất công hơn đối vơímột nhóm người này so với một nhóm người khác, không dựa trên căn cứ pháp lý nào cả, mặc dầu giữa hai nhóm này không có bất cứ một sự dị biệt nào về mặt địa vị pháp lý.
): Enzyklopädie Philosophie und Wissenschaftstheorie. Chẳng hạn trong việc xây dựng chính sách thuế: Những người có khả năng ngang nhau cần phải đóng một khoản thuế ngang nhau (công bằng theo chiều ngang), và những người có khả năng hay thu nhập không ngang nhau cần phải áp dụng những khoản thuế khác nhau (công bằng theo chiều dọc).
Trong tuyên ngôn nhân quyền của liên hợp quốc năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) có ghi nhận là: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và đồng đẳng về nhân phẩm và quyền lợi.
6 Nguyên tắc này đóng vai trò như là nền móng của quốc gia pháp quyền đương đại và là một nguyên tắc quan yếu của nhiều bản Hiến pháp dân chủ. , Thời cơ giữa các thành viên trong tầng lớp được phân chia một cách hiệp, không thiên tính 4.
3 Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. Đồng đẳng trước luật pháp là điều kiện căn bản để đạt đến sự công bằng 6. Muốn vậy, phải có cơ chế giải trình, kiểm tra, giám sát và bảo đảm sáng tỏ thông báo.
Dù rằng có nhiều cách quan niệm cũng như lý thuyết về sự công bằng, tuy nhiên những lý thuyết này vẫn chưa đủ để tạo ra một cách hiểu hợp nhất về sự công bằng, bởi lẽ mỗi một nền văn hóa, ở nể gian và thời kì khác nhau, lại xuất hiện những cách hiểu, cách đánh giá khác nhau về sự công bằng. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đều đề cao giá trị đồng đẳng, công bằng, mục đích là chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về cội nguồn xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, xu hướng dục tình, tiếng nói, tôn giáo, thế giới quan chính trị, cỗi nguồn xuất thân, tài sản hay các điều kiện khác.
Đồng đẳng và công bằng dưới góc độ pháp lý Dưới góc độ pháp lý, đồng đẳng và công bằng là hai khái niệm khác nhau.
” Công bằng hiện tại không chỉ là khuynh hướng chung trong thế giới hiện đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá chừng độ phát triển bền vững của một tầng lớp. Việc thực thi hiệu quả các vấn đề như công bằng trong việc tiếp cận các cơ hội, công bằng trong việc đảm nhiệm bổn phận chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các thế hệ sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển vững bền về nhiều mặt ở khuôn khổ toàn cầu.
Org/external/default/main?pagePK=64165259&theSitePK=478060&piPK=64165421&menuPK=64166093&entityID=000112742_20050920110826). (Xem bẩm của Ngân hàng thế giới (World Bank) về sự công bằng và phát triển (Equity and Development) năm 2006 tại địa chỉ: http://econ. Aufl. Người dân phải được quyền biết và đóng góp ý kiến vào việc hình thành, cũng như giám sátviệc thực thi pháp luật. Metzler, Stuttgart 1995, S.
Tóm lại, công bằng có thể hiểu một cách đại quát nhất là trạng thái lý tưởng của tầng lớp loài người, trong đó vấn đề tài sản, lợi.
348. Công bằng theo nghĩa khách quan và công bằng theo nghĩa chủ quan Công bằng cũng có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau là nghĩa khách quan (objective justice) hoặc nghĩa chủ quan (subjective justice) 1. Công bằng còn được hiểu là sự tầm một môi trường mà trong đó các dịp là ngang bằng nhau. Điều này cũng phản ảnh một qui luật thế tất: sự thống nhất và chống chọi của các mặt đối lập là nguồn cội, động lực của sự phát triển.
746 5 Theo thưa của nhà băng thế giới (World Development Report 2006 – Equity and Development) ở những nước nào mà các yếu tố về công bằng, đặc biệt là công bằng về mặt thời cơ (equality of opportunity) được quan tâm, bảo vệ thì ở những nước đó có sự tăng trưởng tốt về kinh tế.
Mỗi người sẽ có những đánh giá riêng của mình thế nè công bằng hay không công bằng. Hiện tại trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, công bằng dần được coi trong một phạm vi rộng lớn hơn, không chỉ được hiểu là công bằng trong phạm vi quốc gia, mà hơn thế, công bằng còn được hiểu ở phạm vi quốc tế.
, 2011, Rn. 347. Những đạo luật vi phạm nguyên tắc đồng đẳng phải bị tuyên bố vô hiệu. Chính sự cạnh tranh giữa các ý tưởng là bước khởi đầu, là cơ sở quan trọng để góp phần tạo nên sự công bằng tầng lớp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Đó là công bằng. Band 1. Chả hạn, trong một tầng lớp đa dạng, đa chiều, sự cạnh tranh giữa các ý tưởng sẽ tạo điều kiện cho các sáng kiến của cá nhân chủ nghĩa phát triển. Việc thực thi hiệu quả các vấn đềnhư công bằng trong việc tiếp cận các dịp, công bằng trong việc cáng đáng nghĩa vụ chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các đời sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển vững bền về nhiều bình diện ở khuôn khổ toàn cầu.
Lập pháp có nhiệm vụ phải tối ưu hóa mọi ích lợi của mọi thành phần từng lớp (welfare maximization). Đó là sự công bằng; Hay qui định người nào làm nhiều sẽ được hưởng nhiều, người nào làm ít sẽ được hưởng ít, người có công được thưởng, người có tội phải bị trừng trị; người có công càng lớn thì mức thưởng càng lớn, người có tội càng nặng, mức phạt sẽ càng nặng.
Những đối tượng này cần phải được tiếp cận với các dịch vụ săn sóc sức khỏe, giáo dục, công ăn việc làm, nguồn vốn, mạng lưới an sinh nhằm góp phần kiến tạo sự công bằng về điều kiện sống và công bằng về dịp phát triển trong tầng lớp 5. Đồng đẳng về cơ hội và khuyến khích sự cạnh tranh giữa các ý tưởng tầng lớp nào cũng luôn tồn tại những nhóm người yếu thế, nhóm người dễ bị thương tổn.
Theo nghĩa khách quan, công bằng được hiểu là những giá trị đúng đắn, những qui tắc, chuẩn chung hoặc cách thức hành động hạp, được cộng đồng nhấn 2. Những quyết định hành chính hay phán quyết của Tòa án vi phạm nguyên tắc đồng đẳng phải bị hủy bỏ. Chẳng hạn chính sách cộng thêm điểm thi đại học theo vùng hiện, chính sách tương trợ cho những người tật nguyền, người già đơn chiếc không nơi nương tựa ở Việt Nam giờ ngoài ý tức là những chính sách tầng lớp, đó còn là biểu lộ của sự công bằng (công bằng theo chiều dọc).
349. Thí dụ, những thầy thuốc có cùng trình độ, cùng năm cống hiến phải được hưởng lương như nhau, nhưng không thể đòi hỏi lương một người thầy thuốc lâu năm đã bỏ bao công cần lao, học hỏi, phải ngang bằng với lương một người y tá mới ra trường. 4 Xem: Oswald Schwemmer, Gerechtigkeit, in: Jürgen Mittelstraß (Hrsg. -------------- 1 Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit juristischer Methodenlehre, 6.
Worldbank. 2 Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. Chẳng hạn: Cái thiện luôn thắng cái ác, Cô Tấm hiền thảo, chịu thương chịu khó hay Thạch Sanh nghĩa hiệp chung cục được hưởng vinh hoa phú quí, còn mẹ con Cám độc ác hay Lý gian dâm ác, quỷ quyệt rút cục phải bị trừng trị. Hoạt động hành pháp và tư pháp cũng phải dựa trên cơ sở luật pháp và đảm bảo sự vô tư (fairness), song song hiệp với tính chất, mức độ của từng quan hệ pháp lý cụ thể.